Ngành logistics vốn được coi là “xương sống” của chuỗi cung ứng cũng bị ảnh hưởng nặng nề do ảnh hưởng của dịch bệnh và sự bất ổn về chính trị lẫn kinh tế trên toàn cầu. Thực tế ấy đã đặt ra các thách thức cho các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics tại Việt Nam. Điều này buộc các doanh nghiệp Logistics phải đẩy nhanh giai đoạn chuyển đổi số để nâng cao giá trị dịch vụ và đảm bảo sự tăng trưởng bền vững của doanh nghiệp.
Theo bảng xếp hạng của Agility 2022, thị trường logistics Việt Nam được xếp hạng Top 11 trong nhóm 50 thị trường logistics mới nổi toàn cầu. Tỷ lệ nâng cao trưởng kép hằng năm (CAGR) giai đoạn 2022-2027 của thị trường logistics Việt Nam được dự đoán đạt mức 5,5%.
Việt Nam hiện là quốc gia đứng đầu trong những nước ASEAN về số lượng doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics được Cơ quan Quản lý hoạt động hàng hải của Mỹ (FMC) cấp phép.
Tuy nhiên, theo ông Phan Văn Chinh, Cục Trưởng Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương), ngoài các kết quả đáng ghi nhận, ngành logistics cũng còn một số hạn chế. Cụ thể, chi phí thuê các dịch vụ logistics, xây dựng mô hình chuỗi cung ứng còn cao; việc đẩy mạnh liên kết giữa những doanh nghiệp logistics với nhau và giữa các doanh nghiệp logistics và các doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu còn yếu. Hiện nay tại Việt Nam vẫn chưa hình thành được mạng lưới các công ty logistics có quy mô lớn, có năng lực dẫn dắt thị trường, thúc đẩy ngành logistics phát triển…
Theo ông Chinh, một trong các nguyên nhân chủ yếucủa những giảm thiểu này là do vận dụng công nghệ số trong logistics chưa thực sự đáp ứng kịp thời nhu cầu phát triển trong tình hình mới.
Đồng quan điểm, ông Lê Quang Trung, Phó Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp dịch vụ logistics Việt Nam, cho rằng hiện nay mới có khoảng 40% doanh nghiệp dịch vụ logistics đang áp dụng những mô hình công nghệ khác nhau tùy theo quy mô và tính chất dịch vụ.
Trong đó, chủ yếu là các dịch vụ như khai báo hải quan (100% điện tử), thanh toán hóa đơn, thuế (100% hóa đơn điện tử), dịch vụ quản lý khai thác cảng biển, quản lý hành trình xe vận chuyển hàng hóa, quản lý kho bãi,…
Theo ông Trung, việc chuyển đổi số ngành logistics còn rất nhiều rào cản. Rào cản đấy đến từ tư duy nhận thức, tập quán trong việc giao dịch với những chủ thể song song với đó là vấn đề về kỹ thuật, công nghệ, việc chuyển đổi, lựa chọn phần mềm, công nghệ cho từng ngành hàng trong điều kiện hiện nay vẫn chưa dễ dàng.
Đặc biệt, không ít doanh nghiệp gặp cạnh tranh về nhân sự, tài chính và ngày nay hành lang chính sách cho chuyển đổi số vẫn chưa được đồng bộ, hệ thống dữ liệu chưa thống nhất, hạ tầng một số khu vực vẫn chưa hoàn thiện.
“Số hoá” để thích ứng với bối cảnh thị trường mới
Theo các chuyên gia, logistics là một trong những ngành then chốt, được ví như “mạch máu” của nền kinh tế quốc dân đòi hỏi sự đầu tư mạnh mẽ, đặc biệt trong yếu tố “số hóa” để có thể đáp ứng, thích nghi với bối cảnh thị trường, hỗ trợ tối đa thúc đẩy sự phá triển vững mạnh của những ngành nghề khác. Nếu chuyển đổi số thành công thì ngành Logistics có thể rút ngắn thời gian chờ tại cảng lên tới 70%.
Ông Trương Tấn Lộc, Giám đốc Marketing, Tổng công ty Tân Cảng Sài Gòn cho biết, thời gian qua, doanh nghiệp đã cho triển khai đồng loạt cảng điện tử ePort, lệnh giao hàng và hệ thống kho hàng điện tử cộng với áp dụng trí tuệ nhân tạo vào việc chăm sóc khách hàng.
Chỉ riêng việc áp dụng cảng điện tử đã cho phép khách hàng khai báo trực tuyến thông tin container, thông tin hàng hóa, khai báo tờ khai, thanh toán, cho tới khai báo lệnh giao hàng điện tử… Hay như việc phát triển thêm tính năng check-in online, vận dụng tại cảng Cát Lái, giúp giảm thời gian chờ của phương tiện trước cổng cảng, tiến tới sự hình thành cảng tự động. Kết quả, thời gian xe chờ tại cổng cảng giảm từ 13 phút xuống còn 6 phút; thời gian thông quan hải quan điện tử giảm 2 phút/container.
“Chúng tôi cũng tiết kiệm được khoảng 30.000- 50.000 tờ giấy/ngày in ấn chứng từ, giảm 3.000-5.000 lượt xe/ngày di chuyển từ khu vực trungtâm phố và khu vực văn phòng hãng tàu đến cảng. Sản lượng giao nhận từ 11.000 lượt xe/ngày lên 19.000-20.000 lượt xe/ ngày”, ông Trương Tấn Lộc nói.
Từ thực tại hoạt động, ông Trương Tấn Lộc cho rằng, những nhà hàng trong ngành cần xây dựng hệ thống dữ liệu chung, kết nối có những cảng trong khu vực và trên thế giới, góp phần tăng hiệu suất khai thác, sức khó khăn của Việt Nam với các cụm cảng lân cận như Singapore hay Thái Lan.
Ông Lộc cũng kiến nghị Nhà nước xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng đồng bộ, đẩy nhanh tiến độ các dự án kết nối hạ tầng giao thông, kết nối đa phương thức giao thông; tăng cường đầu tư vào cơ sở hạ tầng và kho bãi, hệ sinh thái logistics, tháo gỡ các “nút thắt” về giao thông để việc kết nối, vận chuyển hàng hóa được thuận lợi.
Còn ông Nguyễn Triều Quang, Giám đốc Khối vận hành miền Bắc, Lazada Việt Nam nhận định, doanh nghiệp logistics cũng buộc phải xây dựng hệ sinh thái Logistics xanh bền vững và toàn diện để nắm lấy cơ hội của thương nghiệp điện tử, song song nâng cao trải nghiệm giao nhận hàng hóa từ tất cả điểm chạm; vận dụng công nghệ, khoa học và chuẩn hóa quy trình để nâng cao hiệu suất vận hành, lớn mạnh logistics xanh bền vững.
Tuy nhiên, bà Cao Cẩm Linh, chuyên gia chuyển đổi số, Công ty cổ phần Tư vấn và dịch vụ Viettel cho rằng, vấn đề quan trọng là các doanh nghiệp phải biết khi nào bắt buộc chuyển đổi số và chuyển đổi số như thế nào. Theo bà Linh, siêu thị hạ tầng và doanh nghiệp vận hành giao nhận khối lượng hàng hóa lớn phải cần vận dụng được những thiết bị công nghệ cao, chuyển đổi số sâu. Bởi khối lượng hàng hóa càng to đồng nghĩa với việc công ty phải xử lý những dữ liệu thu thập được và phân tích chính xác. Qua ấy xử lý luồng hàng đảm bảo được sự chuẩn xác và nhanh nhất, đáp ứng nhu cầu của khách hàng, giảm chi phí dịch vụ cho doanh nghiệp.
“Doanh nghiệp nhỏ chưa có tệp khách hàng rộng rãi, quan hệ, hãy xử lý giao nhận hàng hóa bằng nhân lực, chưa bắt buộc phải đầu tư máy móc, công nghệ”, bà Linh nhấn mạnh.
Trong khi đó, ông Trần Thanh Hải, Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu cho rằng, chuyển đổi số là việc của từng cá nhân, từng cơ quan, từng đơn vị. Tuy nhiên, trong quá trình chuyển đổi số bắt buộc có sự đồng hành, phối hợp, hỗ trợ, kết liên của tất cả những doanh nghiệp iên quan. Điều này sẽ tạo ra sự lan tỏa, sự tác động giúp tất cả các doanh nghiệp có thể ứng dụng chuyển đổi số thành công.